Phan Chu Trinh
(Bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh diễn tại nhà hội Việt Nam ở Sài gòn, đêm 19.11.1925)(*)
Thưa các anh em đồng bào!
Anh em đồng bào thấy tôi là người tuổi tác, ở lâu năm bên Pháp về, anh
em đồng bào có lòng quá yêu, nhường cho tôi bước đầu lên diễn đàn nhà
hội "Việt Nam" ta đây, để tỏ ý kiến là hy vọng của tôi đối với xã hội
Việt Nam ta từ ấy đến giờ, thì tôi rất lấy làm cảm tạ vô cùng.
Không nói, tưởng anh em đồng bào cũng đã biết tôi vì quyền lợi của dân
tộc Việt Nam mà phải lăn lóc đến mười tám năm nay. Trong khoảng 18 năm
đó (hơn 14 năm ở Pháp) thường mong mỏi được gặp mặt anh em đồng bào cố
hương, đặng tỏ chút ý kiến về những sự đã được nghe thấy trong khi tôi
trôi nổi nơi đất khách quê người. Không ngờ giấc mộng được thành, trở về
nơi chôn nhau cắt rốn, giáp mặt anh em đông đủ thế này. Tôi mừng quá.
Thưa anh em đồng bào, nay tôi đã được gặp anh em đông đủ ở đây, tôi xin
anh em cho phép tôi được giải bày đôi chút ý kiến về "Đạo đức luân lý
Đông Tây" mà mong rằng anh em để ý hiểu cho. Đáng lẽ theo thời nay,
không thiếu chi vấn đề rất quan trọng làm rung động các dân tộc trên
toàn cầu, tôi có thể nói chuyện cùng anh em được, thế mà tôi lại không
lựa đến mấy vấn đề mới mẻ ấy, chỉ chọn lấy cái vấn đề "Đạo đức và luân
lý" rất tầm thường mà rất cũ kỹ thế này.
Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân
tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh,
đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng
những thuần nhờ sức mạnh thôi, mà phải nhờ cái đạo đức làm gốc nữa; nhất
là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên
trên thì lại cần có một đạo đức vững chặt hơn dân tộc đang giàu mạnh
hơn mình.
Câu chuyện đạo đức tôi sẽ giải ra sau này không cao xa gì, mà cũng không
như câu chuyện đạo đức các ông thuộc về phái thủ cựu thường đã nói. Đạo
đức đây chỉ là: "Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã
có một lịch sử chính đáng, thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch
sử của dân tộc mình", nghĩa là giữ lấy những đức hay tính tốt mấy
trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nuớc nào dân tộc nào đối với
mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại là một cái tính chất của một
dân tộc đã trải lâu năm kết tinh lại như hòn ngọc mài không mòn, như sắt
nguội đánh không bể thì mới gọi là đạo đức được.
***
Thưa các anh em đồng bào!
Tôi lâu nay lưu lạc, bây giờ trở về mới liếc mắt trông qua vài hiện
trạng của mước nhà ta, tôi rất lấy làm buồn lắm. Than ôi! Cái đạo đức cũ
đã mất từ bao giờ không khác gì trái cây khô, mà đạo đức mới cũng chưa
hình thành gì cả. Thử xem các ông cựu học thì bo bo nói rằng phải buộc
bọn thiếu niên tân tiến theo đạo đức cũ. Nhưng chán thay, các ông chỉ
nói thế thôi, xét ra thì những lễ, nghĩa, liêm, sỉ các ông bỏ mất không
biết gì đến rồi, mà đạo đức cũ ông cha ngày xưa để lại cũng theo dòng
nước chảy xuôi, Đó là nói các ông không biết giữ gìn đó thôi, chớ như
đem ngay cái luân lý cũ kỹ mấy nghìn năm trước mà so sánh với luân lý
của thế giới ngày nay thì cũng trái ngược lắm rồi. Còn các bạn thiếu
niên thấy ông lù khù như thế lại càng làm giàu thêm cái tính kiêu căng,
học được chút ít đã vội tưởng mình hơn các cụ già rồi, không giữ gìn
tính nết, thành ra cách ăn ở Tây không ra Tây, mà Nam cũng không ra Nam.
Điều này không chỉ tôi nói ra đây mà thôi, chính người Pháp ở thuộc địa
lâu ngày viết sách chê đến đã nhiều.
Anh em ta đây tất cũng thấy người ta thường nhóm năm nhóm bảy với nhau
rằng cái tính của người Tây kiêu ngạo hay khinh người, nhưng ta hãy tự
hỏi ta điều đó, ta xem cách ta ăn ở có đáng cho người ta kính trọng
không? Sự đó không thiếu gì là gương cũ ta có thể kể ra được. Đã mấy
mươi năm nay, nhờ cái phong trào của thế giới xô đẩy mà trong nước ta
cũng có đảng Thủ cựu, đảng Duy tân, đảng Hòa bình, đảng Kịch liệt làm ồn
ào cả lên mà rút cục lại chẳng thành hiệu quả gì. Đến khi đổ vỡ ra thì
thấy toàn những đầu trâu mặt ngựa cả, chỉ bêu xấu cho cái danh giá của
dân tộc mình, khiến cho người ta trông vào thấy thế càng khinh dễ thêm,
càng vày đạp thêm.
Ông Khổng nói rằng: "Tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi" nghĩa là mình
tốt thì trời đất giúp thêm cho, mà mình đã nghiêng đổ thì trời đất lại
xô đạp thêm. Ông Mạnh cũng nói rằng: "Nhân tất tự vũ nhi hậu nhân vũ"
nghĩ là mình có tự khinh mình thì người ta mới khinh mình. Vậy không
trách mình thì còn trách ai! Bữa nay tôi chọn cái vấn đề này mà nói
chuyện cùng anh em đồng bào, chính là vì cái chính ý đó.
Xưa nay ta học chỉ đọc ngoài miệng thôi, ít khi chịu tách bạch cho phân
minh từng nghĩa nên nhiều khi hiểu lầm. Như chữ đạo đức và luân lý ta
thường cho là một nghĩa chớ không biết rằng đạo đức là đạo đức, luân lý
là luân lý. Đạo đức gồm cả luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo
đức mà thôi. Đã là người thì cần có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, cần,
kiệm. Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ là ăn ở
cho có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời
cho người ta tin mình mới làm được việc, cần là làm việc siêng năng,
kiệm là ăn ở dành dụm trong lúc no để phòng lúc đói, lúc có để phòng lúc
không v.v.. Người có đạo đức là người ở trong đạo làm người vậy. Đạo
đức như thế thì không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là
nhất thiết đời nào, người nào cũng giữ được cái đạo đức ấy mới là trọn
vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu chính thể
khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hắc cộng sản nữa, cũng không tài
nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức nghĩa là đạo đức thì không bao giờ
thay đổi được.
Luân lý thì không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý thì
mỗi người mỗi khác. Thí dụ như nước ta về thời nhà Đinh lập được năm bà
Hoàng Hậu mà đến các đời sau như Lê, Lý, Trần, Tây Sơn, Nguyễn, thì chỉ
lập có một hoàng hậu mà thôi; như đời Trần thì người trong họ được lấy
nhau mà tục ấy đời sau lại cấm. Đời nhà Trần khi nào trong nước có giặc
thì vua triệu những bậc phụ lão trong nước vào điện để bàn bạc, mà đến
đời sau thì chỉ một lũ vua tôi làm chuyên chế với nhau mà thôi.
Lại thí dụ như xứ này hễ cha mẹ chết thì đem ăn thịt hoặc đốt đi, mới
gọi là hiếu, mà xứ kia thì phải làm đám táng có kèn trống linh đình mới
phải đạo làm con. Xem những cớ đó thì đủ biết rằng luân lý có phải là
thứ thiên niên bất dịch đâu mà kỳ thật có thể tùy thời mà thay đổi vậy.
Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thể thay đổi được đạo đức. Ấy
luân lý và đạo đức khác nhau là thế. Nói cho rõ hơn là luân lý như cái
áo tùy người lớn nhỏ mà thay đổi, nhưng cũng không mất hình cái áo đi,
chí như đạo đức là như cơm, như nước, như đồ bổ dưỡng, cần cho mọi người
dẫu muốn thay đổi cũng không thay đổi được, nếu thay đổi được là đạo
đức giả.
Tôi giải rõ hai chữ luân lý và đạo đức khác nhau như thế là cốt ý sẽ bàn
về sự thay đổi luân lý của nước ta và đề phòng khi anh em đông vào nghe
đến "thay đổi luân lý" khỏi lấy làm giật mình. Trước khi tôi chưa giải
rõ nghĩa hai chữ luân lý đạo đức, nếu tôi nói: "Ngày nay ta phải bỏ quân
chủ lập dân chủ mới họp thời" thì chắc cũng có mấy ông hiểu lầm hai chữ
luân lý là đạo đức đều ứng lên mà la rằng: "Bỏ quân chủ thì nền đạo đức
cũ của nhà Nam ta cũng đổ nát theo còn gì!" Nhưng bây giờ thì anh em
cũng không đến nỗi hiểu lầm như thế nữa.
Vậy tôi xin bàn qua hai chữ luân lý Đông Tây:
Luân lý của người Âu Tây dạy cho con trẻ phải thờ cha kính mẹ, thương
yêu bà con họ hàng, tưởng cũng còn hơn cái luân lý của ta dạy bằng "Tam
Tự Kinh" và "Tam Thiên Tự". Luân lý của họ cũng không khác gì mình, duy
theo pháp luật thì con trai con gái họ đến 21 tuổi là tuổi trưởng thành,
thì có thể lìa cha mẹ mà độc lập được, nghĩa là "đến tuổi có nghĩa vụ
mà trách nhiệm đối với luân lý quốc gia tất nhiên phải nhẹ gánh gia đình
đi". Người mình thấy luân lý của người ta khác mình và có lẽ lại sơ
lược hơn mình thì cho là mọi rợ, chớ biết đâu khi xưa họ cũng như mình.
Song từ khi cái tư tưởng quốc gia của họ đã tiến lên thì cái tư tưởng
gia đình lần lần nhẹ bớt đi, ấy cũng là lẽ tiến hóa tự nhiên ... Cũng
như ngày nay cái phong trào xã hội bên châu Âu mạnh quá, khiến cho lắm
nhà triết học đã nghĩ đến cách làm thế nào phá tan cái vòng gia đình
chật hẹp kia, cho mọi người trong nước được bình đẳng, nghĩa là kẻ giàu
người nghèo đều được giáo dục và sinh hoạt như nhau, không đến nỗi như
ngày nay xa nhau một trời một vực, phá cái thành "phân cách" chặn ngang
các hạng người như thế, là cốt giữ gìn trật tự trong xã hội và ai ai
cũng được bình đẳng như nhau.
Nói về quốc gia luân lý châu Âu
Quốc gia luân lý châu Âu phát đạt từ hồi trung cổ nghĩa là từ thế kỷ thứ
XVI nền quân chủ đang thịnh. Vua của họ hồi ấy cũng như vua của ta,
nghĩa là tự thánh tự thần làm chuyên chế quá cho nên mới nảy ra nhiều nhà
đại triết học thuyết minh vua là gì, nước là gì, nói ra có giới hạn,
rất phân minh, khiến cho ai nấy đều hiểu quốc gia có quan hệ mà nhẹ bớt
gia đình.
Thứ hai là từ thời có dân tộc ở châu Âu đều có tính háo chiến cho nên
thường lấy sự thắng trận làm vinh, thua trận mà làm nhục đánh nhau lung
tung. Vì tính háo chiến đó, cho nên dân các nước bên châu Âu về thời đó,
đều có một nền quốc gia luân lý rất bền chặt vững vàng.
Ấy, quốc gia luân lý của họ mà thành là vì hai cớ đó.
Đến bây giờ thì thời cuộc thịnh như đã suy, từ khi bốn năm đại chiến như
vừa rồi, nước thua dân bị lầm than thì đã đành, mà nước được dân cũng
lắm nỗi khốn thành ra trăm việc đều hư nát mà nào có ích cho ai! Vì thế
nên mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại giáo dục đều biết rằng cái
thời đại quốc gia đã qua, không thể duy trì được nữa đành phải bỏ mà
tiến lên thời đại xã hội vậy. Tuy nước nào cũng có một đảng thủ cựu phản
đối kịch liệt, nhưng cái phong trào xã hội bây giờ cuồn cuộn như nước
nguồn đang đổ, thì làm sao ngăn lại được nữa. Cuộc đại thắng của xã hội
luân lý sau này cũng là một việc dĩ nhiên.
Ấy là bước tiến lên, bỏ quốc gia luân lý mà bước lên xã hội luân lý,
cũng như khi bỏ gia đình luân lý mà tiến lên quốc gia luân lý vậy.
***
Xã hội không phải là cái luân lý cường quyền của chính phủ đối với dân,
cũng không phải là sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà chính là
trong nước thì lấy người này đối với người kia, suy rộng ra thế giới thì
lấy loài người đối với loài người.
Trong buổi quốc gia luân lý bên Âu châu đang thịnh, có câu nói rằng: Một người đối với một người thì có công lý, còn một dân tộc đối với một dân tộc thì không có công lý, ngày nay lòng người xu hướng về xã hội luân lý thì lại có câu nói trái lại rằng: Một
người đối với một người đã có công lý thì mấy trăm nghìn, mấy ức triệc
người nhập lại thành một nước, tài nào lại không có công lý.
Đó là tôi tỏ ra rằng chủ nghĩa xã hội luân lý hiện nay bên châu Âu đã mở
mang như thế. Muốn cho dễ hiểu câu "trong nước người này với người kia"
nghĩa là: người có giúp cho người không, người mạnh giúp cho người yếu
như là: bên nước họ mấy nhà giàu bỏ tiền lập nhà thương, trường học cho
con nhà nghèo; những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì hết sức
bênh vực v.v... Nói tóm lại xã hội luân lý là sự suy tự lòng công đức mà
công đức là suy ở tư đức mà ra.
Vì sinh kế, vì lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ
dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như
công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn
không bỏ. Tôi nói như thế chắc anh em nghĩ cho tôi bên Tây lâu rồi nên
tán tụng như thế chăng. Xin thưa bên Âu châu họ cũng xấu chán, dân đức
của họ cũng chưa đến nỗi hoàn toàn, song dân nào cho dù có 30% hoặc 50%
biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi là họ có rồi. Phong tục họ có xấu
mặc lòng, nhưng trong nước họ còn có đảng Thượng lưu biết lo đời, như
mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn hào, đại giáo dục, đứng
lên hô hào nào làm sách, nào viết kịch, nào làm báo, nào diễn thuyết.
Cốt phá bỏ những chứng hư tật xấu của người đời, rồi bọn thiếu niên xã
hội, bọn thiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo để lo cứu chữa
những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng những họ lo ở trong nước họ mà
thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.
Lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái
xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống
hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta
không kính trọng họ cho được?
Bây giờ tôi xin đem cái luân lý của ta so sánh với luân lý của Tây-Âu.
Trên tôi đã nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia dình hết ba, nghĩa
là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu nói theo trí tưởng luân lý từ xưa để
lại mà làm cho đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được. Như
ông Khổng nói: "Cha con có thân, vợ chồng có biệt, anh em có thứ lớp"
nếu ta theo thế mà diễn dịch ra, dẫu gia đình luân lý của ta hẹp hòi,
không được rộng rãi chăng nữa, thì đáng lẽ phải tốt lắm mới là phải, chớ
đâu có tồi bại thế này! Cái nền luân lý ở Á Đông, nhất là ở nước ta
ngày nay đổ nát như thế là bởi các nhà vua chuyên chế làm sai hết cả đạo
Khổng mà ra.
Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lập mưu khép cả kẻ làm
cha, kẻ làm chồng vào cái cạm độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế
của bọn họ. Một bọn hủ nho mắc cạn còn vẽ rắn thêm chân vào, đem những
tư tưởng rất nông nỗi truyền bá ra để trói buộc dân gian. Như là: "Quân thần chí nghĩa bất khả đào ư thiên địa chi gian",
nghĩa là mình sinh ra xứ này phải đội ông vua lên đầu. Tư cách ông vua
thế nào, các ông không cần biết đến. Hễ có cái huy hiệu là ông vua thì
các ông đội lên thôi! Các ông đã tôn vua lên, tất nhiên các ông phải tôn
cha lên mà nói: "Thiên hạ vô bất thị để phụ mẫu" nghĩa là
trong trời đất không có cha mẹ nào quấy. Ôi hủ nho! Hủ nho! Cũng vì mấy
câu tà thuyết của các ngươi mà gia đình luân lý của nước nhà ta ngày nay
trụy lạc đến thế này.
Tôi xin kể ra đây một chuyện rất tầm thường, mắt ta thường thấy, nhưng
tưởng ít ai chủ ý đến. Chuyện ấy là chuyện bài ca và mấy bức tranh Nhị
Thập Tứ Hiếu lòe loẹt trên nóc nhà người Nam ta ngày nay, những bức
tranh gai mắt ấy, những câu ca rười tai ấy tả ra câu chuyện rất vô lý dị
đoan bày rõ một cái án tội nhân của đạo đức Khổng Mạnh. Kẻ tốt quá,
người xấu quá đã không nhằm vào đâu, mà những việc tả ra đó y như là quỷ
thuật, không phải là sự ăn ở thật của loài người. Các anh em nghĩ thử
bụi tre mùa đông lá đã rụng khô hết, khóc thế nào mà mọc được măng; nằm
trên giá thế nào mà cá nhảy lên được? Những chuyện hoang đàng ấy tự là
Quách Thủ Chính đời Minh làm ra chớ không phải đã lâu. Nhiều người mắc
mưu của Thủ Chính đem các bức tranh ấy treo vào vách thay mặt cho đạo
Nho, thế mà không ai dám chê bai đến. Luân lý gia đình như thế thì làm
sao mà càng ngày càng không lụn bại cho được. Ta thử nghĩ xem gia đình
của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng của mình đã sinh ra,
mình muốn thế nào thì phải thế. Đại khái cha mẹ không muốn lo việc đời,
thì cũng không muốn cho con lo việc đời, cha mẹ không muốn đi xa nên
cũng không muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi các ông lớn này, ông
lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt con như thế, thật
không còn gì là cho con một chút tự do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn
như các nhà nghèo thì dạy con thì tát, thì chửi, thì đánh thì nói rằng
thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm như thế là nuôi cho
con một cái tính phục tùng nô lệ. Khi còn ở trong gia đình thì thở cái
không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không
khí trong trường học (tính mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ
đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ,
chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang
từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.
Trong luật ta cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra thì
chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm cúi lo làm để nuôi
cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu trung lưu thì ta không còn thấy chữ
hiếu nữa.
Bọn ấy thường nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho
mang vào để che miệng thế gian, chớ không có một chút gì gọi là hiếu là
thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là khóc mả, nào là ở
dơ, nhưng kỳ trung có thương xót, có yếu đuối gì đâu, chỉ đem một trò
giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả
dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ cũng không ăn ở
thật lòng.
Về đạo vợ chồng thì ta vẫn nói là "Phu xướng phụ tùy" là "Thiếu phụ dĩ
thuận vi chính" hoặc "xuất giá tùng phu" song ta rút cuộc lại nhà nào
thuận hòa tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức có tính cách ngang nhau mới
được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng
đủ biết rằng cái sự gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người
thì dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc người ta theo
được.
***
Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên
không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay
chỉ ở trong vòng chật hẹp của vua và tôi. Không nói đến "dân và nước" vì
dân không được bàn đến việc nước!
Vua là gì? Vua là người cầm quyền chính trong nước, là người đầu sỏ
trong bộ lạc ấy hoặc là người anh hùng thấy dân đồ thán ra đánh đổ cường
quyền, khôi phục lấy đất nước của ông cha để lại rồi tự đặt lên làm
chúa tể cả muôn người; hoặc người gian hùng nhân thời ly loạn dùng mưu
quỷ chước thần đánh đổ con cháu một dòng vua rồi tự đặt mình lên cái địa
vị ấy; hoặc người cùng một nước đánh nhau đặng cầm quyền chuyên chế;
hoặc người nước ngoài lấy sức mạnh đến đánh đặng cầm lấy chìa khóa quyền
lợi. Nói tóm lại vua là người lấy quyền người làm quyền mình, lấy công
quyền làm quyền tư, lấy đất người làm đất mình, lấy đất công làm đất tư
vậy.
Tôi là gì? Tôi là người tùng phục vua (vua chư hầu) hoặc là ngươi làm nô
lệ cho vua, hoặc là người làm công cho vua. Đem mình ra đầu tên mũi đạn
đổi lấy một mảnh giấy vàng, một dấu ấn đỏ; dang đầu ra giữa trận mưa
dầu nắng lửa để đổi lấy chung rượu lạt, tiếng ban khen. Nói tóm lại, tôi
là người tôi mọi, bán rẻ vừa hồn lẫn xác cho vua vậy.
Quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ gồm có thế, cho nên dân trong
nước không biết quyền dân là gì, nghĩa vụ là gì. Vua của ta ngày xưa là
thế, tôi của ta ngày xưa là thế, sử sách của ta gọi nước là thế! Cho
nên dân không biết vua và nước có có cái giới hạn gì khác nhau không. Vì
thế cho nên dân chỉ biết tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc, gặp vua
tử tế làm nhiều công bình thì dân thương, dân liều chết ra đánh giặc
giúp vua; gặp vua tàn bạo làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa
hờn mở cửa thành cho giặc vào. Thí dụ như hồi nước Pháp đánh Bắc Kỳ chỉ
có 90 tên lính mà trong 24 giờ thì hạ được bốn thành, mà lính Nam không
ai bắn trả lại một phát súng. Hồi ông Nguyễn Huệ kéo quân ở Huế ra Thăng
Long, Nguyễn Chính có quân đóng ở đó, song chưa đánh đã thua, khiến vua
Chiêu Thống phải chạy, đi đường bị dân bóc lột. Ông Mạnh có nói rằng:
"Vua coi dân như cỏ rác, thì dân coi vua như người đi đường", đã coi như
người đi đường thì còn luân lý gì. Việc gì mà chẳng bóc lột.
Xem như thế thì xưa nay nước ta không có quốc gia luân lý, chỉ có một
cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo. Vua với dân không có luân lý gì
dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ của vua hiệp nhau lấy sức mạnh để đè
nén dân mà thôi vậy.
Trừ ra đời nhà Trần thì vua với dân gần nhau lắm. Con vua cũng đi chơi
với con dân, những phụ lão đều dự bàn việc nước, và những vua đã truyền
ngôi cho Hoàng Thái Tử rồi thì thường đi khắp nhân gian xem xét phong
tục, chính trị để sửa sang cho hiệp với lòng ước vọng của dân; cho nên
dân mến đức mà cảm phục, mấy lần tử chiến với giặc Mông Cổ, mấy phen
hiệp sức để giúp vua mới thắng trận một cách vẻ vang như thế.
Ngày nay đọc một đoạn vinh dự sử của nhà Trần đều lấy làm vui; ta đọc
đến khúc bi thảm sử của nhà Lê, nhà Nguyễn thì đều lấy làm buồn, nhưng
có mấy khi ta chịu xét đến cái gốc rễ của lẽ thắng bại đâu.
Người nào có học chữ Pháp một chút thì cũng biết rằng trong sách ấu học
hoặc sách tiểu học, bắt đầu đều dạy: phải thương nhà, thương người đồng
loại; thế mà ngày nay không có ai dám mở miệng ra nói một tiếng "thương
nước" thì nghĩ có đáng chán không! Hơn sáu mươi năm nay ở dưới quyền một
nước bảo hộ rất văn minh, rất tự do mà cái mầm tự do không nẩy ra được
là bởi tự đâu?
Không phải cái độc chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong óc người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương nước đã có luật Gia Long cấm (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh). Những kẻ học trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo việc nước.
Thương nước thì phải tù tội (!) cho nên những nhà thế phiệt giữ mình cho
đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo việc đời, sự thương nước
làm sợ. Sợ quá! Hình như nói đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ
cắp kẻ trộm vậy. Rất đỗi bây giờ người Nam đã ở dưới chính trị Pháp là
giống người cho sự thương nước làm tính tự nhiên của loài người mà cũng
không ai dám nói tới; xem chừng còn lo sợ hơn khi còn ở dưới quyền
chuyên chế nữa. Có người cho lời tôi nói là chuyện chiêm bao, cãi lại
rằng: ở bên Pháp người ta dạy thương nước như thế, chớ bên này thì người
ta không dạy như thế đâu. Hễ ai nói đến thương nước thì trong sổ kín
của sở mật thám đã ghi tên vào rồi; họ cho là phản Tây làm loạn, như thế
bảo người Nam không sợ sao được?
Việc đó tôi cũng đã biết chán, tôi xin thưa rằng cái lỗi ấy bởi ông cha
ta để lại. Cái "dây xiềng sắt" ấy chính tay ông cha ta đã làm ra để buộc
ta. Người ta nhân lấy đó mà cột mình, nào có phải người ta bày đặt ra
hay là mang ở bên Pháp qua mà cột mình đâu! Họ làm như thế vì họ thấy
mình không trả lời được. Nay mình trả lời như thế này thì họ cấm sao
được: "Một nòi dân cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở
trong miếng đất mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ
vạt ra, thành ra một nước lưu truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì cho
phép được hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó chết chôn
đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được.
Loài dân ấy không đến nỗi như dân Do Thái ở châu Âu, không đến nỗi như
bọn hắc nô ở Mỹ châu đi tới đâu cũng bị chết chóc, thì cũng không khi
nào chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là "Tổ Quốc" của chúng
nó bao giờ. Một loài như thế mà bảo chúng đừng thương "Tổ Quốc" thì bảo
chúng thương ai?". Nếu ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ
tàn bạo thế nào cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao ta không dám nói
thương nước?
Cái thương nước tôi nói đây không phải là xúi dân "tay không" nổi lên,
hoặc đi lạy nước này cầu nước khác để phá hoại trong nước đâu! Tôi xin
thưa: Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta
phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu
chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ người ta làm
việc gì bất công thì mình phải hiệp sức nhau lại mà chống, còn làm việc
gì phải chăng thì mình cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình
mất rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người ta. Thế thì
lòng thương nước của dân Việt Nam có làm gì hại đến quyền lợi người
Pháp không? Tôi xin thưa rằng: không! Dân Việt Nam thấy người nào làm
hại cho nước nó thì nó ghét, ấy là lẽ tự nhiên.
Theo ý tôi tưởng, chẳng qua dân Việt Nam mình hèn hạ nên người ta mới đè
nén, nếu dân Việt Nam biết thương nước Việt Nam nhờ thì người ta tất
cũng phải kiếm đường xúi giục cho người mình càng biết thương nước hơn,
vì có biết thương nước mới biết chọn nước nào làm lợi, nước nào làm hại
cho nó. Thương nước cho phải đường mới gọi là thương nước, nếu thương
không phải đường thì đã không giúp gì cho ai mà lại còn làm hại sinh
linh nữa. Nay ta nói thương nước, nhưng thương bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra
đó kêu người đến thì có khác gì đem đầu đi làm đầy tớ với anh khác. Tôi
dám tưởng nếu người Pháp họ không cho ta thương nước, để ta nằm ỳ mãi ra
đó thì đã không lợi gì mà lại khiến cho ta chán nản, không tội gì trung
thành một cách vô ích với họ nữa, thế thì sự thương nước cũng có lợi
cho người Pháp.
Tôi nói đây thật chưa hết nhưng đã dài lắm rồi, vậy xin anh em cho phép tôi tóm lại đoạn đã nói ở trên.
"Từ nay dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên trời đã
phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp. Phải có quốc gia luân lý in
sâu vào óc thì sự ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau này mới thành
tựu được. Tôi ở Pháp về mà nói như thế chắc anh em lấy làm lạ, vì nay
người bên Âu châu đã đào sâu chôn chặt cái ái quốc chủ nghĩa rồi, nay
tôi lại đem về tuyên bố trong dân gian hóa ra trái ngược với phong trào
bên ấy lắm ru? Xin thưa rằng không phải.
Chúng ta phải biết rằng: "Một loài dân trong một nước cũng như bọn học
trò trong trường học, phải có thứ lớp, phải tuần tự mà tiến tới, phải
qua lớp dưới mới lên lớp trên, không bao giờ nhảy lớp được, nghĩa là
phải do gia đình luân lý tiến lên quốc gia luân lý, rồi do quốc gia mà
tiến lên xã hội vậy." Thế thì chúng ta cũng phải bước qua cái nền quốc
gia luân lý trong đôi ba mươi năm đã, rồi mới có thể mong tiến lên xã
hội luân lý được.
***
Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với
quốc gia luân lý thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn
không thể thay cho xã hội luân lý được, cho nên không cần cắt nghĩa làm
gì.
Tuy trong sách Nho có câu: "Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ". Hai
chữ "thiên hạ" đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng
võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy
thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.
Cái chủ nghĩa xã hội bên Âu châu rất thịnh hành như thế, thế mà người
bên ta điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì. Thương hại thay! Người
nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành,
đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên Pháp
mỗi khi người có quyền thế hoặc chính phủ lấy sức mạnh mà đè nén quyền
lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài,
hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới
nghe.
Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công
đức biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền
lực đè nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy đè nén mình, cho
nên phải hiệp nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học xét kỹ thấy
xa như thế, còn nước mình thì sao? Người mình thì phải ai tai nấy, ai
chết mặc ai! Đi đường gặp người bị nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt
cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không liên quan đến
mình.
"Đã biết sống thì phải bênh vực nhau" ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu
đến. Cho nên mới có câu: "Không ai bẻ đũa cả nắm" và "Nhiều tay làm nên
bộp." Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết
công ích, cũng có góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ
trọi lơ láo, sợ sệt, ù lỳ như ngày nay.
Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi bốn trăm năm trở về
đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bã vinh hoa của các
triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có
dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị mình được giữ
mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Dầu trôi nổi, dầu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội
mũ ngất ngưỡng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm
nghìn năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua
càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, "một
người làm quan một nhà có phước", dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu
rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy lúa của dân mua
vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì
khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú
quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan đời xưa đời nay
của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ
thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi - ở nước ta là thế đấy!
Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ,
ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thông ngôn;
có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn
quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo
cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố ruộng,
dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cầu được lấy chức xã trưởng hoặc cai
tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những
kẻ như thế mà không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay!
Thương ôi! Làng có một năm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo
sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lý cả. Đó là nói
người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư ký ngụ
thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách
mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được!
Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế (xã hội
chủ nghĩa ở đây Phan Chu Trinh dùng theo nghĩa tinh thần và ý thức xã
hội, khác với cụm từ XHCN của đảng CSVN-HVCD).
Nay muốn một ngày kia nuớc Việt Nam được độc lập thì trước hết dân Việt
Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là
truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.
Nói về đạo đức Âu châu và đạo đức Á Đông
Mới xem ngoài mặt thì ta đều cho dân Âu châu là một dân tộc háo thắng,
độc ác, dữ tợn; nhưng không, ta lầm đấy, ta ở lâu mới thấy họ có nền đạo
đức cao hơn ta nhiều. Nền đạo đức của họ cao hơn ta là nhờ họ đã thâm
những tư tưởng tự do truyền bá từ đời Hy Lạp, La Mã trở xuống. Họ cũng
trải qua một hồi chuyên chế nhưng dân khí họ không như dân khí ta. Dân
khí của họ rất phấn phát, nguời của họ rất anh hùng. Càng chuyên chế bao
nhiêu càng nẩy ra những nhà hiền triết làm ra sách để truyền bá tư
tưởng trọng dân bấy nhiêu. Dẫu hành hình khổ sở cũng không làm họ khiếp
sợ, cho nên tên tuổi của họ mới sống tượng đồng bia đá đến ngày nay. Anh
em đây ai đã đi qua Paris một lần tất cũng đã xem thấy những cái hình
đồng mấy nhà triết học chống lại với đạo Gia Tô vậy.
Nói đại khái thì về thế kỷ XVII như ông Jean Jacques Rousseau làm ra
"Dân ước" (Contrat social), ông La Fontaine làm ra "Ngụ ngôn" (Fables),
ông Montesquieu làm ra "Pháp ý" (L'Esprit des lois), ông Pascal, ông
Voltaire v.v... đều là những tay kiếm hết cách mở cái chìa khóa chuyên
chế để giúp đồng bào ra chỗ tự do. Tôi kể bấy nhiêu ông đó là chỉ tỏ
rằng trong đời chuyên chế mà vẫn còn có người ra lo việc đời như thế,
chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự
do diễn thuyết thì người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao
nhiêu.
Đem so với Á Đông đời xưa duy có mấy ông trong đời Xuân Thu, Chiến Quốc
bên nước Tàu như là ông Khổng, ông Mạnh, ông Mặc, ông Lão, ông Trang có
thể ngang được với mấy ông kia, còn từ Tần trở về sau thì cả Á Đông cũng
không có người như thế nữa, chớ đừng nói đến nước Việt Nam ta.
Trong nước ta bây giờ có ông nào gọi là nhà đạo đức không? Nói xa hơn
nữa thì trong triều nhà Lê có ông nào gọi là nhà đạo đức như mấy ông tôi
đã kể không? Thế mà đời nào cũng có người được triều đình khen, được
làm miễu thờ.
Rút lại, những tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà
những kẻ vua đã đè xuống thì không ai dám tôn lên. Làm như thế thì trách
nào những nhà đạo đức nước ta không chóng mất sao được? Người có tư
tưởng tự do chẳng những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ
hại đến quyền chuyên chế của mình nên lập mưu đập chết đi. Ở trong một
dân tộc như thế thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều sao
được?
Ông Montesquieu có nói: "Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua
thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy thế vị lớn nhỏ làm danh dự mà
thôi; duy dân chủ mới thật còn có đạo đức."
Ấy, chúng ta muốn nước ta có nhà chân đạo đức thì nên nhân dịp này phá
tan dây xích chuyên chế đã ràng buộc ta hơn nghìn năm nay và thu nhập tư
tưởng tự do của Âu châu để làm một phương thuốc cho người nước ta vậy.
Được như thế thì nhà đạo đức mới có thể xuất hiện trong đất nước này.
Tôi không muốn thí dụ nhiều, tôi chỉ xin kể chuyện ông Trần Quý Cáp
trong năm 1908 thì anh em sẽ biết chế độ quân chủ ở nước ta có hại cho
nhà có luân lý đạo đức là thế nào.
Ông Trần là người rất thảo thuận, học hành rộng, tính nết tốt, làm giáo
thọ ở Nha Trang, chỉ theo việc bổn phận mình là ông thầy, khuyên dân mở
thêm trường học mà bị tên Phạm Ngọc Quát bố chính ở tỉnh ấy, nhân loạn
bắt ông, trong 24 giờ thì chặt đầu. Cái thảm trạng ấy há không phải ở
quyền chuyên chế mà ra sao?
Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi
người, ta có hay không? Thưa rằng: Không! Một xứ đã bị chuyên chế thì
tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được.
Tôi thường thấy người mình, kẻ nào khôn hơn chút đỉnh, giao thiệp với
người kém hơn chút đỉnh thuần chỉ nói dối. Đứa "ăn cắp có giấy" làm minh
bạch đã xong mà đứa ăn cắp chưa cấp bằng cũng đều một mực như thế cả.
Tôi xem thấy lắm người danh dự không bằng ai, học thức không hơn ai, nhắm lại mình chưa khỏi hai chữ "đầy tớ người" mà khi ra đối với người
đồng bào đồng chủng đã có ý kiêu căng, bảo ta là thầy đây! Ta là ông
đây! Chớ không có tự nghĩ cho rằng: Thầy đây, ông đây đã làm được điều
gì ích lợi cho bọn "dân Việt Nam" tay lấm chân bùn kia chưa? Tôi cũng đã
từng thấy nhiều người viết báo than thở rằng đạo đức luân lý nước nhà
trụy lạc, nhưng nói như nước chảy lá môn chẳng có hiệu quả gì. Vì sao
vậy? Là vì các ông nói mà các ông ít chịu thực hành thì người ta không dám theo các ông cũng phải (chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh).
Huống chi luân lý các ông giảng đó tự tệ tục của chính thể chuyên chế
tạo nên, thành ra, không chính đáng, không hợp thời thì người ta không
thèm nghe cũng không thấy gì làm lạ vậy.
Bây giờ ta đem đạo đức luân lý Âu châu về có gì chống với đạo Khổng Mạnh chăng?
Từ nãy đến giờ tôi chỉ trích luân lý của ta, khen ngợi luân lý Âu Tây,
chắc anh em nghe lạ tai, cho tôi là người bội đạo Khổng Mạnh chăng? Xin
thưa rằng từ khi tôi hiểu chút ít đạo đức của Khổng Mạnh thì tôi rất
sùng bái lắm. Vẫn biết đạo Khổng Mạnh hay thật nhưng bây giờ ta biết
kiếm nơi đâu? Qua Tàu đem về chăng? Kiếm trong các sách sử Việt Nam này
chăng? Tưởng thắp đuốc tìm cũng không thấy nữa, là vì nước Nam, nước Tàu
bỏ mất đạo ấy đã lâu rồi.
Đạo Khổng Mạnh không phải là cách chuyên chế của các nhà vua mà anh em đã mộng tưởng đâu. Đạo Khổng Mạnh dạy "quân dân tịnh trọng"
(vua dân đều trọng) và rất bình đẳng; vua và dân đều cần đạo đức luân
lý, nghĩa là dân phải kính trọng vua như cha mẹ mà vua cũng suy lòng đó
mà yêu dấu dân như con đỏ vậy.
Trong sách Đại Học thầy Tăng Sâm dẫn lời đức Khổng rằng: "Tự thiên tử dĩ
chí ư thứ dân nhất thị giai sĩ tu thân vi bổn": Từ vua cho đến dân đều
phải lấy việc sửa mình làm gốc. Sửa mình là việc lớn mà đức Khổng Tử
buộc dân và vua đều phải như thế, chẳng là bình đẳng lắm ru? Cái chính
thể ấy bên Âu châu thực hành đã lâu rồi, nghĩa là cái chính thể quân dân cộng trị mà Tàu dịch ra là quân chủ lập hiến vậy.
Hiện nay có nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy. Dân
trí hai nước trên đã tiến tới nhiều, cho nên quyền vua cũng đã tiến giảm
bớt nhưng dân cũng thương vua mà vua vẫn yêu dân. Nước Nhật thì có kém
thua nhưng đã theo chính thể lập hiến thì trước sau rồi cũng tới nơi
vậy.
Đến đời ông Mạnh, các vua chư hầu chuyên chế thái quá thì ông lại xướng
lên cái chủ nghĩa dân chủ. Như ông nói rằng: "Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh". Nghĩa là dân quý hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là
khinh. Ngày nay bên Đức, bên Pháp, bên Nga tuy chính thể của họ có khác
nhau chút đỉnh nhưng cũng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả. Thế
thì cái văn minh Âu châu bây giờ có trái gì với đạo Khổng Mạnh đâu. Đức
Khổng đã nói rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu
vua không thương dân, dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không dạy đến.
Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi
vua, vua bảo rằng vua quý mà dân khinh thì dân phải làm sao? Ông cũng
không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi Khổng Mạnh đã qua rồi thì dân Tàu
cũng thế mà dân ta cũng thế, hễ họ vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua
nào thua thì mất nước; vua công bình thì dân theo, vua tàn bạo thì dân
giết, thành ra đời nào bền lắm thì là mấy chục năm, thay đổi tranh giành
gây ra lắm cuộc trị loạn làm cho giết hại lẫn nhau; cha giết con, con
giết cha, anh giết em, em giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua không còn
gì là đạo lý luân thường nữa.
Đạo Khổng Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo đức luân
lý vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Âu
châu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc rất thần diệu để chữa
bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo
Khổng Mạnh về. Đạo Khổng Mạnh là đạo trung dung thường dùng như cơm nước
thường ngày; như kính trọng cha mẹ; như thương người đồng loại, chớ
không phải mê tín như các đạo khác. Thế thì đem văn minh Âu châu về đã
không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.
Tôi nhắc lại một lần nữa rằng: "Đem văn minh đây là cái chân văn minh Âu Tây hòa hợp với chân Nho giáo ở Á Đông,"
chớ không phải là tự do độc lập ở đầu lưỡi ở mấy anh Tây học lem nhem
mà cũng không phải là quốc hồn quốc túy ngoài môi của các nhà Hán học dở
mùa đâu.
Cứ theo lời tôi đã nói thì anh em đồng bào cũng hiểu rằng: vì học đạo
Khổng Mạnh một cách lầm lạc như thế cho nên hơn nghìn năm nay hết thảy
những nước theo đạo tà nho đều yếu hèn và phải mất một cách nhục nhã.
Như nước Cao Ly, hễ Mãn Châu tới thì theo Mãn Châu, Mông Cổ tới thì theo
Mông Cổ, đến khi Nhật Bản tới thì Nhật Bản lấy. Như nước Tàu thì nhà
Tống mất bởi nhà Nguyên (Mông Cổ), nhà Minh mất bởi nhà Thanh (Mãn
Châu). Chao ôi! Nước Tàu bị Mãn Thanh, Mông Cổ lấy nước, Cao Ly bị Nhật
Bản lấy không phải là tội nơi những kẻ tà nho hủ bại của nước Tàu, nước
Cao Ly đấy ư?
Một nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông vua
thì chẳng là ngu xuẩn lắm ư? Gặp được ông vua thông minh còn e lo chưa
hết bổn phận thay, huống là gắp phải anh vua u mê làm ròng những sự độc
ác, cấm dân có ăn học không được lo việc nước (chữ in
đậm do HVCD nhấn mạnh), thì dân khốn khổ biết bao, và còn ai dám ra mà
gánh vác. Một nhà không ai lo chủ trương, một nước không ai lo chủ
trương, thì nhà nước ấy làm sao không tan không mất được.
Nước Tàu mà mất ấy, nước Cao Ly mà mất ấy cũng là lẽ tự nhiên, Nói đến
nước ta lại càng đau đớn lắm nữa. Vua Lê Thánh Tông đem luật nhà Minh về
chưa đầy 50 năm thì bị nhà Mạc đánh đổ. Nhà Trịnh lên khôi phục cũng
chỉ có tiếng khôi phục đấy thôi, vua Lê cũng bị giết lên giết xuống, còn
quân thần gì đâu, còn luân lý gì đâu! Đến vua Gia Long nhà Nguyễn thỉnh
luật Càn Long về lại càng chuyên chế hơn nữa. Chưa đầy 80 năm đã bị mất
nước một cách hèn hạ.
Mất nước một cách hèn hạ nhục nhã như thế há không phải tại vua tôi nhà Lê nhà Nguyễn đấy ư?
Mới đây Cao Ly đã thâu nạp được văn minh Âu Mỹ nên năm 1919 mới có cuộc
độc lập vận động. Nước Tàu cũng thế, xướng ra việc bài ngoại vận động
làm cho Anh Pháp đều phải nể mặt không dám hung hăng như ngày xưa. Xem
như thế thì đủ biết rằng cái tư tưởng quốc gia đã nảy ra trong đầu người
Tàu, người Cao Ly rồi vậy.
Người nước ta thì sao? Người nước ta vẫn còn say sưa trong giấc ngủ
nghìn năm, chưa có chút gì gọi là giật mình mở mắt cả. Bọn già thì lo
làm quan để kiếm tiền nuôi vợ con, bọn trẻ thì lo làm thầy đặng kiếm gạo
nuôi miệng, ngoài cái lo xác thịt ra thì không có một tư tưởng gì khác.
Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa may tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng
hỏi đến họ cách khuếch lợi, trừ hại, tự cường, tự lập thì họ ập ạ như
người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng mơ nước ngoài tràn vào mà thôi.
Dân tộc Nhật Bản được giàu mạnh như ngày nay là chỉ theo cái văn minh hình thức của Âu châu hay có sửa đổi gì luân lý không?
Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn với Nhật
Bản; thấy họ tiến thì nức nở khen chớ không khi nào chịu xét vì sao mà
họ được tiến tới như thế? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay
là họ còn trau dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Ai
có đọc đến lịch sử Nhật Bản mới biết họ cũng bồi đắp nền đạo đức của họ
lắm. Từ lúc Minh Trị duy tân cho đến 24 năm sau hạ chiếu lập hiến trong
nước Nhật biết bao nhiêu người lo khuynh Mạc Phủ lo lập hiến pháp, biết
bao nhiêu kẻ đổ máu rát cổ mới gây dựng nên một nước tân tiến rất giàu
rất mạnh như bây giờ. Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật Bản
về! Không biết họ qua bển làm gì!? Người ta có câu: "Gần mực thì đen
gần đèn thì sáng". Sao những kẻ sang Nhật sao không đem cái tốt về cho
dân Việt Nam nhờ, mà chỉ làm giàu thêm cái tính nô lệ như thế? Rất đỗi
những việc hèn hạ một người dân tầm thường không làm, mà những kẻ ấy
cũng làm được hết thảy! Hay là đạo đức luân lý đã chết trong lương tâm
của người mình rồi, cho nên không hấp thụ được đạo đức luân lý của người
chăng? Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi, cho nên một nơi có
thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng? Lấy lịch sử mà nói
thì dân Việt Nam không phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là
một dân tộc không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn
60 năm mà vẫn còn mê mê muội muội, bít mắt vinh tay không chịu xem xét,
không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người?
Có người nói rằng tại Pháp họ đè nén mình không cho mình học làm súng
ống, làm máy bay, tàu ngầm, nên dân mình mới ngô nghê như thế! Những
người nói câu ấy là những người không học lịch sử Pháp hoặc có tính yêu
mình thái quá, nên chỉ biết trách người mà không biết tự trách mình. Sao
không nhớ khi Pháp sang, sợ mình theo Tàu, cho người mình sang Pháp học
mà mình vẫn khư khư không chịu sang bên đấy ư? Người Pháp cho mình
2.000 khẩu súng, 5 chiến thuyền mà mình không dám thuê lấy một người
Pháp trông nom, để lính mình làm xằng bậy mà hư hỏng hết đấy ư? Tôi nói
thế không phải là khen người Pháp có lòng tốt, nhưng chỉ lối ngoại giao
của người ta khôn khéo là thế, mà mình dở dang là thế, cho anh em đồng
bào biết đấy thôi. Phải chi lúc đó ta biết nhân dịp sang nước người học
tập lấy vài khéo của người ta, thì bây giờ so sánh tuy không kịp nước
Nhật nhưng so với Phi Luật Tân, với Xiêm La cũng không đến nỗi xa lắc
như thế này.
Ngày xưa nhắm mắt lại, một là văn minh Tàu, hai là văn minh Tàu, bị độc
khoa cử làm mờ ám trí không đã đành, đến ngày nay đã hé mắt ra thấy
người Tàu vận động nhiều việc rất to tát như gửi du học sinh khắp hoàn
cầu, như bỏ quân chủ, lập dân chủ, mà cũng an nhiên bất động, nhất thiết
chẳng biết gì là gì. Chẳng những thế mà thôi, lại còn mấy anh sang Tàu
về nói láo, nói linh, chê người nọ, hạch người kia mà tự mình xem ra
cũng không có bản lĩnh gì cho người ta đủ kính đủ phục. Có anh bạo gan
chê cả Tôn Văn là người đại biểu văn minh cho nước Tàu đời nay, mà không
biết rằng anh ta đem cái sự nghiệp của anh ta, cái tài năng của anh ta
mà so sánh có bằng mảy may của Tôn Văn không? Những tính chất của người
Tàu các anh không hề học đến, mà các anh khéo đem về một cái láu lĩnh và
một cái bao tử trống mà thôi. Thế mà biết hồn luân lý đạp đức của người
mình bị độc khoa cử giết chết, chỉ còn để nguyên lại một cái tính nô lệ
thôi. Đạo đức mất trước, nước mất sau thật cũng không phải là lời nói
ngoa vậy.
Có một vài người anh hùng không chịu đi xem xét, mê tín lịch sử đời xưa,
trọng chủ nghĩ trung quân, chủ nghĩa phục thù, tìm mưu kiếm kế phỉnh
phờ cho dân dậy lên, nhưng than ôi! Một con dao, một đoạn tre thì có làm
gì. Cái nỗi thảm hại, đưa đầu ra cho người bắn, đem thịt ra cho người
bằm nghĩ cũng đáng thuơng, nhưng công việc làm nào có ích gì! Chẳng qua
làm cho dân đức của ta trụy lạc, khiến những bọn nô lệ kia, bọn vô sỉ
kia lấy đó mà dọa nạt, mà hà hiếp dân lành thôi.
***
Luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn có được không?
Có người hỏi luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn
có được không? Tôi xin trả lời rằng: không. Một nước luân lý cũ đã mất
là nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu?
Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một
cây tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia a mà chắp với một
cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng không tài
nào sinh tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp,
tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức lực bằng
nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cố mong anh em nên cứu chữa lấy cây
luân lý cũ của ta, rồi đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy.
Luân lý của Âu châu có tốt trọn không? Ta muốn theo thì phải làm thế nào?
Nói rằng luân lý Âu châu tốt hơn thì tốt nhiều. Nói rằng luân lý Âu châu
trọn tốt thì không dám nói rằng trọn được. Là vì: Dân tộc nào cũng thế,
cắt nghĩa theo luân lý đạo đức thì dễ, nhưng làm theo luân lý đạo đức
thì khó, không sao trọn vẹn được. Bên Âu châu họ cũng có nhiều cái dở,
như nam nữ tự do thái quá, ly ly, hợp hợp, rất thường, thành ra đường
sinh sản kém lần mà dân số không thêm; như giàu nghèo cách biệt thái
quá, người ngồi không, kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư
bản xung đột nhau mà trong nước không yên. Mê tín quốc gia chủ nghĩa về
đời trung cổ thái quá yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang
họa chiến tranh mãi mãi. Trọng trí dục hơn đức dục, chuộng ngoại giao
hơn thành thật, cho nên thường sinh ra xâu xé nhau mà mất sự thái bình.
Ấy là kể sơ lược, chớ kể hết tưởng cũng còn nhiều lắm. Bệnh họ tuy nhiều
nhưng họ đã có thầy có thuốc chữa ngay, nghĩa là có những nhà triết
học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ, canh cải sửa sang cho nền đạo đức
luân lý mỗi ngày mỗi cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như mước ta tốt khoe, xấu che làm cho một ngày thêm một xấu
(chữ in đậm do HVCD nhấn mạnh). Vậy nay ta qua thâu cái luân lý Âu Tây
để đem về truyền bá cho dân Việt Nam, thì ta phải nên chủ ý lắm, lừa lọc
lắm mới được, những điều gì đáng đem về thì ta hãy đem.
***
Thưa các anh chị em đồng bào!
Tôi nói từ nãy đến giờ thật cũng nhiều rồi. Vậy xin anh em cho tôi nói tắt lại rằng: Ta
đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân ta hèn cũng vì mất đạo đức
luân lý, bị người khinh bỉ dày xéo cũng vì mất đạo đức luân lý, thì ta
phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.
Anh em ta hãy gắng sức mà làm đi.
(Cử tọa đều vỗ tay. Cụ Phan uống hết tách nước, đứng lên nói thêm mấy câu):
Thưa anh em,
Tôi cũng biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một nước mà trăm
việc đều đổ nát như thế này, không phải là việc dễ. Nhưng nay ta bảo
rằng khó, không khôi phục lại nền đạo đức cũ thì biết bao giờ mới mở mặt
được với người. Tôi nói đạo đức cũ không phải nói con phải làm tôi mọi
cho cha, vợ phải làm tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi cho vua
đâu, mà chính là cái đạo đức trung dung của Khổng Mạnh, đem dùng vào đời
nào, nước nào cũng được, không cổ, không kim, không đông, không tây,
như tôi đã nói vậy. Đạo ấy ở trong câu: Sĩ khả sát, bất khả nhục (giết người học trò được, mà làm nhục thì không được), phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu
(giàu sang không mê được lòng mình, nghèo hèn không đổi được chí mình,
sức mạnh không buộc mình cúi đầu, được thế mới gọi là đại trượng phu)
...
Nếu ta giữ được một ít đạo đức của ta, thâu thái một ít đạo đức của Âu
châu đem điều hòa lại, rồi khuếch trương luân lý ta ra cho có quốc gia
luân lý, nghĩa là khiến dân Việt Nam ai ai cũng đều biết nghĩa vụ đối
với nước Việt Nam. Được như thế thì chẳng những được nước Việt Nam sau
này được giàu mạnh, mà còn trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến ăn
chung ở đậu trên miếng đất này cũng không dám đem lòng khinh dễ ta như
ngày nay nữa.
(*) Trích Phan Chu Trinh: Một chí sĩ giàu lòng nhiệt huyết (1872-1926). NXB Văn hóa-Thông tin 1998.
Đăng nhận xét