Phùng
Hoài Ngọc
(VNTB)
- Chúng tôi đọc được bài viết của tác giả
Trần Quang Đức đăng trên các trang web BBC, BVN, VNTB, cảm thấy rất tâm đắc và
cũng thấy có những vấn đề cần trao đổi lại.
Chúng tôi đồng tình những
quan điểm sau mà tác giả Trần Quang Đức đã nêu bật:
“… khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt,
trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm
dao tự xẻo thịt mình!”
“… Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc
chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc
đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết
nó có nguồn gốc Tàu !”.
Tuy nhiên có những quan
điểm sau cần được trao đổi lại.
1. Ông Trần Quang Đức
viết :“Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng
đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau.
Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải
qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất”.
Văn bản của Khổng tử và
cổ nhân truyền lại đời sau có hai vấn đề phức tạp như sau:
Một
là:
văn bản cổ chép với trình độ ngữ pháp thô sơ, quá cô đọng, có thể nảy sinh hai
ba nghĩa khác nhau, người biên soạn, chú giải sẽ chọn nghĩa theo ý mình. Chỉ có
ngữ pháp hiện đại mới hoàn chỉnh tới mức một câu văn chỉ cho một nghĩa xác định.
Hai
là:
Khổng học bắt đầu áp dụng từ nhà Hán khi hình thành chế độ giao dục Nho học,
qua Đường, Tống, Minh, Thanh lại do các học giả thời đó diễn giải theo ý riêng,
do đa nghĩa như trên đã nói, hoặc do cố ý phục vụ lợi ích chế độ đương thời.
2. Ông
Trần Quang Đức nhận xét: “Và
trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt” (?!).
Ông Trần Quang Đức chưa
hề có một lời chỉ ra cái “què quặt” của văn hóa TQ như thế nào khiến bạn đọc
băn khăn khó hiểu. Thực ra, nền văn hóa Trung Hoa trước Mao và ngay cả khi có
Mao vẫn là một hệ thống hoàn chỉnh, liên tục từ truyền thống đến hiện đại. Ý thức
hệ tư tưởng Mác- Lê bị cấy ghép vào TQ sinh ra tư tưởng Mao cho đến nay vẫn
chưa đủ khả năng thay đổi căn bản nền văn hóa lâu đời này, có chăng chỉ là bề
ngoài, tung hoành trên khẩu hiệu chính trị. (Trong toàn bộ sách Ngữ văn phổ
thông TQ, chỉ học một bài thơ khá hay của Mao tựa đề “Tẩm viên xuân” viết thời
tuổi trẻ nói về ước vọng kết bạn đi làm đại nghiệp). Cũng vì sức mạnh truyền thống
văn hóa Trung Hoa cố kết bền chắc mà văn hóa phương Tây tràn vào TQ cũng rất
khó hòa nhập, để lộ ra những cách ứng xử văn hóa kệch cỡm lố bịch khiến người
nước khác cảm thấy khó chịu khi tiếp xúc. Phải chăng vì thế mà ông Đức bảo như
thế là “què quặt”? (Đôi khi người Việt cũng từng nói “Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng
ra Tàu” để nói về văn hóa Việt Nam).
3. Ông Trần Quang Đức
viết:“Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt
mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống
chữ mới gọi là chữ Nôm”.
Tác giả nhầm lẫn rất cơ
bản về cách cấu tạo chữ Nôm.
Người Việt mượn văn tự
Hán, chứ không “mượn cách đọc chữ Hán” để chế tác chữ Nôm như tác giả đã viết.
Thời trước khi có chữ
quốc ngữ, ví dụ khi viết khai sinh cho hai người: Nguyễn
Thị Bé Hai, Lê Văn Út, nhưng chữ Hán chỉ có
Nguyễn Thị (阮氏) và Lê Văn (黎文), vậy ta phải tạo ra chữ
Bé Hai và Út dựa trên các chữ Hán được chế lại:
Bé Hai:
và Út :
.
Nguyễn Du muốn viết câu
mở đầu Truyện Kiều“Trăm năm trong cõi người
ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” mà chỉ có sẵn hai chữ Hán là tài, mệnh, còn 12 chữ kia phải dùng chữ
Nôm có sẵn, nếu thiếu thì tự chế thêm. Chữ Nôm chỉ mượn nét chữ (văn tự), không
mượn cách đọc và không mượn nghĩa (ước có hai chục công thức tạo chữ Nôm), chữ
Nôm chỉ ghi lại ngữ âm tiếng Việt rặt.
4. Ông
Trần Quang Đức viết: “Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không
thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời
Nguyễn viết”. (chúng tôi gạch chân)
Trong câu trên, ông Đức
không nói rõ “học tiếng Trung hiện đại” theo trình độ nào (?). Và ông cũng lẫn
lộn giữa môn Tiếng Trung như một ngoại ngữ và môn Ngữ Văn Hán Nôm với tư cách một
môn văn hóa Việt Nam. Môn Tiếng Trung sinh ngữ đào tạo ở trường đại học ngoại
ngữ, trong khóa trình cũng có vài ba học phần để nghiên cứu Hán cổ văn. Nhờ vậy,
cử nhân tiếng Trung (cũng gọi Trung văn, Hoa văn, Hoa ngữ, Hán ngữ) hệ chính
quy ở Việt Nam dư sức đọc “hoành phi, câu
đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết” nếu là chữ Hán. Còn nếu là chữ Nôm thì sinh viên ngành
ngữ văn Hán Nôm sẽ đọc được. Phát ngôn của ông có thể khiến những người ấy phàn
nàn khiếu nại ông. Ý kiến của ông chỉ đúng với những người học tiếng Trung theo
các chứng chỉ ABC phục vụ nhu cầu thực dụng như giao dịch kinh doanh, du lịch
.v.v…
Môn Ngữ văn Hán Nôm được
học ở các khoa Ngữ văn sư phạm, khoa Ngữ văn trường đại học xã hội-nhân văn, Viện
Hán Nôm, Viện ngôn ngữ. Sinh viên tốt nghiệp trở thành những cán bộ nghiên cứu
và/hoặc giảng dạy chuyên nghiệp. Ngành học này tập trung nghiên cứu văn bản Hán
cổ (Trung Quốc và Việt Nam) và văn bản Nôm của Việt Nam. Các khoa này có thể học
thêm tiếng Trung hoặc không cần học cũng được. Nhiệm vụ của họ là nghiên cứu đọc
hiểu tất cả các văn bản nói trên, lại còn sưu tầm, phiên âm và khai thác các
văn bản Hán và Nôm dùng chung trên giấy in, gia phả, văn bia, bia mộ, đình,
chùa, miễu, cổng làng đây đó tồn tại khắp đất nước nữa.
5. Ông Trần Quang Đức lại
viết “Bởi
vậy, khi phản đối HVKT (học viện Khổng tử) thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng
coi nó là thứ chữ lạ”.
Tôi chắc là chẳng có ai
bài xích văn tự Hán- Nôm của dân tộc mình. Bởi vì đó là loại văn hóa phi vật thể,
cũng như một loại đồ cổ đặc biệt mang tính văn hóa và lịch sử, là di sản của
dân tộc. Nhiệm vụ của các thế hệ sau phải tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn
và khai thác.
Cuối cùng, xin nhắc lại,
chúng tôi trân trọng những quan điểm cơ bản của tác giả Trần Quang Đức về thái
độ ứng xử với văn hóa Hán và di sản Hán- Nôm của dân tộc. Bên cạnh đó chúng tôi
thấy cần trao đổi lại những ý kiến ông mở rộng đi sâu nhưng thiếu chính xác và
có thể gây hiểu lầm cho bạn đọc.
Đăng nhận xét