Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

TÔNG THƯ LAUDATO SI’ - CHƯƠNG BỐN

Written By Thanhcao's Blog on Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015 | 12:11

TÔNG THƯ
LAUDATO SI’
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
VỀ SỰ CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA

CHƯƠNG BỐN
NỀN SINH THÁI TOÀN DIỆN



137. Bởi vì mọi sự đều có liên hệ gần gũi với nhau, và các vấn đề của ngày nay mời gọi một tầm nhìn có khả năng suy xét mọi khía cạnh của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nên tôi đề nghị rằng chúng ta giờ đây sẽ suy xét một số yếu tố của một nền sinh thái toàn diện, một nền sinh thái rõ ràng tôn trọng các chiều kích nhân loại và xã hội của nó.

I. NỀN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

138. Ngành sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành phần hữu cơ sống động với môi trường mà trong đó các thành phần này phát triển. Điều này nhất thiết kèm theo sự suy tư và tranh luận về các điều kiện cần thiết cho sự sống và sự sinh tồn của xã hội, và sự trung thực cần thiết để đặt vấn đề về những mô thức phát triển, sản xuất và tiêu thụ nhất định. Chúng ta không thể nhấn mạnh đủ về việc mọi sự có liên hệ qua lại với nhau thế nào. Thời gian và không gian không phải độc lập với nhau, và thậm chí các hạt nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử cũng không thể được suy xét cách đơn lập. Cũng như nhiều khía cạnh khác nhau của hành tinh – vật lý, hoá học, và sinh học – đều có liên hệ với nhau, vì thế mà các loài sinh vật sống cũng là một phần của một mạng lưới mà chúng ta sẽ không bao giờ khám phá và hiểu một cách đầy đủ được. Nhiều loại sinh vật sống khác cũng cùng chung phần tốt lành của mã gien của chúng ta. Điều kéo theo là sự phân mảnh về sự hiểu biết và sự tách biệt các mẩu thông tin thực sự có thể trở thành một hình thức của sự ngu muội, trừ khi chúng được kết hợp lại với nhau thành một tầm nhìn rộng lớn hơn về thực tại.

139. Khi chúng ta nói về “môi trường”, điều chúng ta thực sự muốn nói là một mối quan hệ tồn tại giữa thiên nhiên và xã hội vốn đang sống trong môi trường ấy. Thiên nhiên không thể bị coi là một điều gì đó tách ra khỏi bản thân chúng ta hoặc như là một bối cảnh thuần tuý mà chúng ta sống trong đó. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, được bao gồm trong đó và do đó ở trong một mối tương tác liên lỉ với môi trường. Việc nhận biết được lý do vì sao một nơi được cho là đã bị ô nhiễm đòi hỏi một sự nghiên cứu về các công việc của xã hội, nền kinh tế của nó, và các khuôn mẫu hành xử của nó, và cách thế nó nắm bắt thực tại. Đứng trước quy mô của sự thay đổi, chúng ta không còn có thể tìm ra một câu trả lời cụ thể, gián đoạn cho từng phần của vấn đề nữa. Điều thiết yếu là tìm kiếm những giải pháp toàn diện là những giải pháp suy xét những tương tác với chính các hệ thống thiên nhiên và với các hệ thống xã hội. Chúng ta đang phải đối diện không phải với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt, một cuộc khủng hoảng môi trường và cuộc khủng hoảng xã hội, mà hơn thế là với một cuộc khủng hoảng phức tạp cả về môi trường lẫn xã hội. Các chiến lược cho một giải pháp đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện để chống lại cái nghèo, khôi phục phẩm giá cho người bị loại trừ, và đồng thời bảo vệ thiên nhiên.

140. Do bởi có nhiều nhân tố và sự khác nhau của các nhân tố được đưa vào suy xét khi xác định sự tác động môi trường của một việc cụ thể đang thực hiện, thì việc giao cho các nhà nghiên cứu vai trò đúng đắn của họ, sắp xếp sự tương tác của họ, và đảm bảo sự tự do học thuật của họ là điều thiết yếu. Cuộc nghiên cứu đang diễn ra cũng cần mang lại cho chúng ta một sự hiểu biết tốt hơn về việc các tạo vật khác nhau liên hệ với nhau như thế nào trong việc tạo nên những đơn vị lớn hơn là điều mà ngày nay chúng ta gọi bằng thuật ngữ “các hệ sinh thái”. Chúng ta suy xét những hệ thống này không chỉ để quyết định cách tốt nhất để sử dụng chúng, mà còn bởi vì chúng có một giá trị cố hữu độc lập về tính hữu dụng của chúng. Mỗi sinh vật, trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, là tốt lành và đáng trân trọng nơi chính nó; điều tương tự cũng đúng với toàn thể hoà hợp của các sinh vật tồn tại trong một không gian xác định và đang đóng vai trò là một hệ thống. Mặc dù chúng ta thường không ý thức về điều đó, nhưng chúng ta đang lệ thuộc vào những hệ thống lớn hơn này cho sự tồn tại của chúng ta. Chúng ta chỉ cần gợi nhắc việc các hệ sinh thái tương tác với nhau như thế nào trong việc làm phân tán khí các-bon đi-ô-xít, làm sạch nước, kiểm soát bệnh tật và bệnh dịch, hình thành đất đai, phá vỡ chất thải, và bằng nhiều cách khác mà chúng ta phớt lờ hay không biết đến. Một khi các nhà nghiên cứu trở nên ý thức về điều này, thì nhiều người sẽ nhận ra rằng chúng ta đang sống và hành động dựa trên thực tại là điều trước đó đã được ban tặng cho chúng ta, điều có trước sự hiện hữu của chúng ta và khả năng của chúng ta. Vì thế, khi chúng ta nói về “việc sử dụng bền vững”, thì phải luôn luôn dành sự suy xét về khả năng tái tạo của mỗi hệ sinh thái trong các lãnh vực và khía cạnh của nó.

141. Sự tăng trưởng kinh tế, về phần nó, có xu hướng tạo ra những phản ứng có thể dự báo được và một sự tiêu chuẩn hoá nhất định với mục tiêu làm đơn giản các thủ tục và làm giảm các khoản chi phí. Điều này cho thấy sự cần thiết đối với một “nền sinh thái kinh tế” có khả năng mời gọi hướng tới một tầm nhìn rộng hơn về thực tại. Việc bảo vệ môi trường thực ra là “một phần thiết yếu của tiến trình phát triển và không thể được xem xét trong sự cô lập khỏi tiến trình”.[114] Chúng ta đang rất cần một nền nhân loại có khả năng quy tụ các lãnh vực tri thức lại với nhau, bao gồm cả kinh tế, trong việc phục vụ một tầm nhìn toàn diện và hỗ tương hơn. Ngày nay, việc phân tích các vấn đề môi trương không thể tách rời khỏi việc phân tích con người, gia đình, việc làm và các bối cảnh đô thị, cũng không thể tách rời khỏi cách mà các cá nhân liên hệ với chính bản thân họ, là điều sẽ dẫn đến cách họ liên hệ với người khác và với môi trường. Có một mối liên hệ qua lại giữa các hệ sinh thái và giữa các lãnh vực khác nhau của sự tương tác xã hội, cho thấy một lần nữa rằng “toàn thể thì lớn hơn bộ phận”.[115]

142. Nếu mọi thứ có liên hệ với nhau, thì sự lành mạnh của các tổ chức của xã hội cũng có những tác động lên môi trường và chất lượng cuộc sống con người. “Mọi sự phá vỡ sự liên đới và tình bằng hữu dân sự đều làm tổn hại môi trường”.[116] Theo nghĩa này, nền sinh thái xã hội nhất định có tính tổ chức, và dần dần mở rộng ra đến toàn thể xã hội, từ nhóm xã hội sơ cấp, là gia đình, đến địa phương rộng hơn, là các cộng đồng quốc gia và quốc tế. Bên trong mỗi giai tầng xã hội, và giữa chúng với nhau, các tổ chức phát triển để chi phối các mối quan hệ con người. Bất cứ điều gì làm suy yếu những tổ chức này đều có những tác động tiêu cực, chẳng hạn như bất công, bạo lực và sự mất tự do. Một số quốc gia có một cấp độ tương đối thấp về sự hiệu quả mang tính tổ chức, là điều tạo nên những vấn đề lớn hơn cho người dân của họ trong khi lại làm lợi cho những người đang trục lợi từ hoàn cảnh này. Dù là trong việc quản lý của nhà nước, của các cấp độ xã hội dân sự, hay các mối quan hệ giữa chính bản thân các cá nhân, thì sự thiếu tôn trọng pháp luật đang trở nên mỗi ngày một phổ biến hơn. Luật pháp có thể được thiết lập tốt nhưng vẫn là con chữ chết. Do đó, chúng ta có thể hy vọng rằng trong những trường hợp như thế, pháp lý và các quy định có liên hệ đến môi trường sẽ thực sự cho thấy tính hiệu quả? Chẳng hạn, chúng ta biết rằng các quốc gia vốn có pháp lý rõ ràng về việc bảo vệ các khu rừng vẫn tiếp tục im lặng khi họ thấy luật pháp liên tục bị phá vỡ. Hơn thế nữa, điều đang xảy ra ở bất kì một khu vực nào có thể có ảnh hưởng trực tiếp hay gian tiếp trên những khu vực khác. Do đó, chẳng hạn, việc sử dụng thuốc gây nghiện ở các xã hội giàu có tạo nên một sự đòi hỏi liên tục và tăng dần về các sản phẩm được xuất khẩu từ những vùng nghèo hơn, nơi mà hành vi ứng xử thì hư hỏng, cuộc sống bị phá huỷ, và môi trường tiếp tục suy thoái.

II. NỀN SINH THÁI VĂN HOÁ

143. Cùng với di sản về thiên nhiên, cũng có một nền di sản về lịch sử, nghệ thuật và văn hoá vốn đang cùng một trật đang bị đe doạ. Di sản này là một phần của căn tính chung của mỗi nơi và một nền tảng mà trên đó xây dựng một thành phố sinh sống. Vấn đề không phải là việc phá đổ hay xây dựng các thành phố mới, được cho là có tôn trọng môi trường hơn nhưng không phải luôn là nơi hấp dẫn hơn để sống. Hơn thế, có một sự cần thiết để kết hợp lịch sử, văn hoá và kiến trúc của mỗi nơi lại với nhau, do đó sẽ bảo tồn được căn tính nguyên gốc của nó. Cho nên, sinh thái cũng liên hệ đến việc bảo vệ các kho tàng văn hoá của nhân loại theo một nghĩa rộng nhất. Cụ thể hơn, nó mời gọi một sự chú ý lớn lao hơn đến các nền văn hoá địa phương khi nghiên cứu các vấn đề môi trường, ưu tiên đối thoại giữa ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và ngôn ngữ của người dân. Văn hoá thì hơn cả điều mà chúng ta đã thừa hưởng từ quá khứ; nó cũng là, và trên hết tất cả, một thực tại sống động, năng động và hiện hữu có tính dự phần, là điều không thể bị loại trừ khi chúng ta nghĩ lại về mối quan hệ giữa con người nhân loại và môi trường.

144. Một tầm nhìn mang tính tiêu thụ về con người nhân loại, được khích lệ bởi các cơ chế của nền kinh tế toàn cầu ngày nay, có một tác động san bằng trên các nền văn hoá, hạ thấp sự đa dạng phong phú vốn là di sản của toàn thể nhân loại. Những nỗ lực để giải quyết tất cả mọi vấn đề ngang qua các quy định giống nhau hoặc những can thiệp kĩ thuật có thể dẫn đến việc coi thường những phức tạp của những vấn đề địa phương vốn đòi hỏi sự dự phần tích cực của tất cả các thành viên của cộng đồng. Những tiến trình mới đã thành hình không thể luôn luôn phù hợp với các bộ khung được tháp nhập vào từ bên ngoài; chúng cần được đặt trong chính nền văn hoá địa phương. Cũng như sự sống và thế giới là những thực tại năng động, thì sự quan tâm của chúng ta dành cho thế giới cũng phải linh hoạt và năng động. Những giải pháp thuần tuý kỹ thuật sẽ gặp rủi ro nói đến những triệu chứng chứ không nói đến những vấn đề tàng ẩn nghiêm trọng hơn. Có một sự cần thiết phải tôn trọng các quyền của các dân tộc và các nền văn hoá, và trân trọng sự phát triển của một nhóm xã hội đang đưa ra một tiến trình xã hội sẽ diễn ra trong một bối cảnh xã hội và đòi hỏi một sự liên hệ thường trực và năng động của người dân địa phương ngay từ bên trong nền văn hoá của họ. Khái niệm chất lượng cuộc sống cũng không thể được áp đặt từ bên ngoài, bởi vì chất lượng cuộc sống phải được hiểu bên trong thế giới của các biểu tượng và tập tục thích hợp cho mỗi nhóm người.

145. Nhiều hình thức tập trung của việc khai thác và làm suy thoái môi trường không chỉ làm cạn kiệt các nguồn lực vốn mamg lại cho các cộng đồng địa phương kế sinh nhai, nhưng còn xoá bỏ những cấu trúc xã hội là những điều, trong một thời gian dài, đã hình thành nên căn tính văn hoá và cảm thức của họ về ý nghĩa cuộc sống và cộng đồng. Sự biến mất của một nền văn hoá có thể chỉ nghiêm trọng bằng, hay thậm chí nghiêm trọng hơn sự biến mất của một số loại thực vật hay động vật. Sự áp đặt một lối sống thống trị có liên hệ đến một hình thức sản xuất nhất định có thể cũng nguy hại như là việc làm suy thoái các hệ sinh thái.

146. Theo nghĩa này, thật thiết yếu để thể hiện một sự quan tâm đặc biệt cho các cộng đồng bản địa và các truyền thống văn hoá của họ. Họ không chỉ là một thiểu số trong số các cộng đồng khác, nhưng phải là những đối tác đối thoại quan trọng, đặc biệt khi những dự án lớn ảnh hưởng đến đất đai của họ được đưa ra. Đối với họ, đất đai không phải là một món hàng nhưng hơn thế là một món quà từ Thiên Chúa và từ ông bà tổ tiên của họ là những người đã yên nghỉ ở đó, một không gian thánh thiêng mà họ cần phải tương tác với nếu họ muốn tiếp tục duy trì căn tính và các giá trị của họ. Khi họ vẫn ở trên đất của họ, thì chính bản thân họ chăm sóc nó tốt nhất. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, áp lực đã đặt trên họ buộc họ phải rời bỏ quê hương của họ để nhường chỗ cho các dự án nông nghiệp hay quặng mỏ là những dự án được thực thi mà không đoái hoài gì đến sự suy thoái của thiên nhiên và văn hoá.

III. NỀN SINH THÁI CỦA ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

147. Sự phát triển đúng đắn bao gồm những nỗ lực để mang lại một sự phát triển toàn diện trong chất lượng sống con người, và điều này kéo theo việc suy xét bối cảnh mà trong đó người dân sống cuộc sống của họ. Những bối cảnh này ảnh hưởng cách chúng ta nghĩ, cảm nhận và hành động. Trong phòng của chúng ta, nhà của chúng ta, nơi làm việc và láng giềng của chúng ta, chúng ta sử dụng môi trường của chúng ta như là một cách thế thể hiện căn tính của chúng ta. Chúng ta thực hiện mọi nỗ lực để phù hợp với môi trường của chúng ta, nhưng khi nó bị mất trật tự, hỗn loạn, hay bão hoà với tiếng ồn và vẻ xấu xí, sự kích thích quá mức như thế sẽ làm cho chúng ta khó thấy mình toàn vẹn và hạnh phúc.

148. Một sự sáng tạo và đại lượng đáng nể phục được thể hiện bởi những con người và những nhóm là những người đáp trả lại những giới hạn môi trường bằng việc làm giảm các tác dụng phụ của những bối cảnh xung quanh và biết cách định hướng cuộc đời của họ giữa những ngổn ngang và bấp bênh. Chẳng hạn, ở một số nơi, là những nơi mà mặt tiền của các toà nhà nhìn nghèo nàn, thì người dân thể hiện sự quan tâm đặc biệt cho phần nội thất của ngôi nhà của họ, hoặc tìm kiếm sự hài lòng trong sự tử tế và thân thiện của những người khác. Một đời sống xã hội lành mạnh có thể thắp sáng một môi trường mà dường như không thể mong ước được. Đôi khi một nền sinh thái con người đáng khen ngợi lại được thực hiện bởi người nghèo bất chấp muôn vàn gian khó. Cảm giác ngột ngạt mang lại do bởi những nơi dân cư phân bố đông đúc bị chặn lại nếu các mối quan hệ ấm áp và gần gũi được phát triển, nếu các cộng đồng được lập nên, nếu các giới hạn của môi trường được đền bù ở nơi đời sống nội tâm của mỗi người là người cảm thấy được gắn bó bên trong một mạng lưới của tình liên đới và thuộc về. Bằng cách này, bất cứ nơi nào cũng có thể biến đổi từ việc là một địa ngục trần gian thành một bối cảnh cho một đời sống có phẩm giá.

149. Tình trạng cực nghèo được kinh nghiệm ở những khu vực thiếu sự hoà hợp, thiếu những không gian mở hoặc tiềm năng cho một sự hội nhập, có thể dẫn đến những sự cố của sự tàn bạo hay đến việc khai thác bởi các tổ chức tội phạm. Ở những vùng phụ cận bất ổn của các thành phố lớn, kinh nghiệm hằng ngày về sự đông đúc và tình trạng vô danh xã hội có thể tạo nên một cảm giác bứng rễ là điều tạo nên hành vi chống đối xã hội và tình trạng bạo lực. Tuy nhiên, tôi muốn khẳng định rẳng tình yêu luôn luôn cho thấy mạnh mẽ hơn. Nhiều người ở trong những hoàn cảnh này có thể đan dệt lại những mối liên kết của sự thuộc về và cùng nhau là những điều biến đổi sự đông đúc thành một kinh nghiệm của một cộng đồng mà trong đó các bức tường của cái tôi bị phá đổ và các rào cản của sự ích kỷ được vượt thắng. Kinh nghiệm về sự cứu độ mang tính cộng đồng này thường tạo ra những ý tưởng sáng tạo cho sự tiến bộ của một toà nhà hay một khu phố.[117]

150. Tương quan giữa không gian sống và hành vi con người cho thấy, những người thiết kế các toà nhà, những khu phố, những không gian công cộng và thành phố, cần phải vẽ trên những sự hiểu biết khác nhau là điều sẽ giúp chúng ta hiểu được những tiến trình tư duy, ngôn ngữ biểu tượng và cách hành động của người dân. Chỉ tìm kiếm vẻ đẹp của bản thiết kế không thôi thì chưa đủ. Đáng quý hơn vẫn là việc phục vụ mà chúng ta mang lại trước một kiểu vẻ đẹp khác: chất lượng sống của người dân, sự thân thuộc của họ với môi trường, việc gặp gỡ và sự trợ giúp lẫn nhau. Cũng ở đây, chúng ta thấy thật quan trọng biết bao là việc quy hoạch đô thị luôn luôn suy xét những quan điểm của những người sẽ sống trong các khu vực này.

151. Cũng có một sự cần thiết phải bảo vệ những nơi chung này, những địa danh thấy được và những cảnh quan đô thị là những điều làm gia tăng cảm thức thuộc về, cội nguồn, “cảm thấy ở nhà” của chúng ta trong một thành phố gồm có chúng ta và quy tụ chúng ta lại với nhau. Thật quan trọng là các khu vực của một thành phố cần phải liên kết tốt với nhau và rằng những người đang sống ở đó có một cảm thức toàn thể, hơn là việc rời khỏi một khu phố và không thấy thành phố lớn hơn như là không gian mà họ chia sẻ với những người khác. Những can thiệp ảnh hưởng đến phong cảnh đô thị hay nông thôn cần suy xét cách các yếu tố khác nhau kết hợp lại để tạo thành một tổng thể vốn được tiếp nhận bởi các cư dân của nó như là một khung sườn nhất quán và ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Do đó, những người khác sẽ không bị coi là những người xa lạ, nhưng là một phần của cái “chúng ta” là điều mà tất cả chúng ta đang làm việc để tạo ra. Vì cùng một lý do này, ở cả những bối cảnh đô thị và nông thôn, thật hữu ích để đặt sang một bên một số nơi có thể được bảo tổn và bảo vệ khỏi những thay đổi thường trực do bởi sự can thiệp của con người mang lại.

152. Việc thiếu nhà ở là một vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, cả ở những vùng nông thôn lẫn ở những thành phố rộng lớn, bởi vì các khoản ngân sách nhà nước thường chỉ chi trả cho một khoản nhỏ của yêu cầu. Không chỉ người nghèo, mà còn nhiều thành phần xã hội khác nữa, thấy thật khó để sở hữu một ngôi nhà. Có một ngồi nhà có liên quan rất nhiều đến một cảm thức về phẩm giá cá nhân và sự phát triển của các gia đình. Đây là một vấn đề chính đối với nền sinh thái con người. Ở một số nơi, những khu phố ổ chuột tạm mọc lên, điều này có nghĩa là phát triển những khu phố ấy hơn là đập phá hay thay thế chúng. Khi người nghèo sống trong những khu ổ chuột mất vệ sinh hoặc trong những khu chung cư nguy hiểm, “trong những trường hợp là những nơi cần thiết phải tái định cư lại, để không phải chồng chất khổ đau, cần cung cấp đầy đủ thông tin, với những chọn lựa về nhà cửa hợp lệ được đưa ra, và người dân trực tiếp liên qusan cần phải là một phần của tiến trình”.[118] Đồng thời, sự sáng tạo cần phải được thể hiện trong sự kết hợp những khu phố suy yếu thành một thành phố chào đón: “Thật tuyệt vời biết bao khi những thành phố này vượt thắng được sự mất niềm tin làm tê liệt, kết hợp những người khác biệt và làm cho sự kết hợp rất tuyệt này thành một nhân tố mới cảu sự phát triển! Thật hấp dẫn biết bao là những thành phố ấy, những thành phố ngay cả trong thiết kế kiến trúc của chúng, đầy những không gian kết nối, liên hệ và ưu tiên việc nhận biết những người khác!”[119]

153. Chất lượng cuộc sống ở các thành phố có nhiều liên hệ với các hệ thống giao thông, vốn là một nguồn của nhiều khổ đau đối với những người sử dụng chúng. Nhiều xe hơi, được một hay nhiều người sử dụng, lưu thông trong các thành phố, tạo nên việc kẹt giao thông, làm gia tăng mức độ ô nhiễm, và tiêu thụ những khối lượng lớn năng lượng không tái tạo được. Điều này tạo nên sự cần thiết phải xây dựng nhiều đường sá và các khu vực đậu xe hơn là những việc làm hư hỏng cảnh quan đô thị. Nhiều chuyên gia đồng ý về sự cần thiết dành quyền ưu tiên cho phương tiện giao thông công cộng. Tuy nhiên, một vài phương thế cần thiết sẽ không dễ dàng cho thấy là chấp nhận được đối với xã hội trừ khi những cải tiến sau đó được thực hiện trong chính những hệ thống, là điều mà ở trong nhiều thành phố buộc người dân phải chịu đựng những điều kiện không đúng phẩm giá vì đông đúc, bất tiện, dịch vụ ngắt quãng và thiếu an toàn.

154. Tôn trọng phẩm giá của chúng ta như là những con người thường bị phiền toái bởi những thực tại hỗn loạn mà con người phải chịu đựng trong đời sống đô thị. Tuy nhiên, điều này phải đừng làm cho chúng ta coi thường sự bỏ rơi và phớt lờ cũng được những cư dân nông thôn kinh nghiệm là việc thiếu quyền được sử dụng những dịch vụ thiết yếu và nơi mà những công nhân bị hạ xuống những hoàn cảnh của hình phạt khổ sai, không có quyền và thậm chí niềm hy vọng về một cuộc sống có phẩm giá hơn.

155. Nền sinh thái con người cũng hám chứa một thực tại sâu sắc khác: mối quan hệ giữa đời sống con người và luật đạo đức, là điều đã được khắc ghi vào trong bản tính của chúng ta và cần thiết cho việc tạo nên một môi trường có phẩm giá hơn. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã nói về một “nền sinh thái của con người”, dựa trên sự thật là “con người cũng có một bản chất mà con người phải tôn trọng và rằng con người không thể thao túng như mong muốn”.[120] Thật đủ để nhận ra rằng chính thân xác chúng ta sẽ thiết lập cho chúng ta một mối quan hệ với môi trường và với những sinh vật sống khác. Sự chấp nhận thân thể của chúng ta như là quà tặng của Thiên Chúa là thiết yếu cho việc đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như là một quà tặng từ Chúa Cha và ngôi nhà chung của chúng ta, trong khi nghĩ rằng việc chúng ta sẽ vui hưởng quyền tuyệt đối trên thân xác của chúng ta sẽ biến đổi, thường là tinh tế, thành việc nghĩ rằng chúng ta sẽ vui hưởng quyền tuyệt đối trên công trình tạo dựng. Biết chấp nhận thân xác của chúng ta, chăm sóc nó và tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn nhất của nó, là một nhân tố thiết yếu của bất cứ một nền sinh thái con người nào. Cũng thế, việc thấy giá trị của thân xác của một người trong phái tính nữ hay phái tính nam của nó là cần thiết để tôi có thể nhận biết chính bản thân tôi trong cuộc gặp gỡ với một ai đó khác. Theo đó, chúng ta có thể vui vẻ chấp nhận những quà tặng cụ thể của người nam hay nữ khác, công trình của Thiên Chúa Đấng Tạo Dựng, và thấy được sự phong phú của nhau. Thật không phải là một thái độ lành mạnh vốn tìm kiếm “để xoá bỏ sự khác biệt về phái vì người ta không còn biết cách đối diện với nó nữa”.[121]

IV. NGUYÊN TẮC VỀ THIỆN ÍCH CHUNG

156. Một nền sinh thái toàn diện thì không thể tách rời khỏi khái niệm về thiện ích chung, một nguyên tắc đạo đức xã hội trọng tâm và thống nhất. Thiện ích chung là “tổng thể những điều kiện của đời sống xã hội là điều cho phép các nhóm xã hội và các thành viên cá thể của các nhóm này một cách tương đối toàn diện và sẵn sàng đạt tới sự thành toàn của họ”.[122]

157. Tàng ẩn bên dưới nguyên tắc về thiện ích chung là sự tôn trọng con người nhân loại như vậy, được phú ban cho những quyền bất khả xâm phạm nhất định nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện của con người. Điều này cũng có liên hệ với nền an sinh tổng thể của xã hội và sự phát triển của một sự đa dạng các nhóm trung gian, áp dụng nguyên tắc bổ trợ. Nổi bật lên trong các nhóm này là gia đình, như là tế bào nền tảng của xã hội. Sau cùng, thiện ích chung kêu gọi hoà bình xã hội, sự bình ổn và sự an ninh được mang lại bởi một trật tự nhất định là điều không thể đạt được mà không có sự quan tâm cụ thể dành cho nền công lý có tính chất phân phối; bất cứ khi nào điều này bị phá vỡ, thì bạo lực sẽ luôn luôn tiếp nối. Xã hội như một tổng thể, và đặc biệt là nhà nước, buộc phải bảo vệ và cổ võ thiện ích chung.

158. Trong hoàn cảnh hiện tại của xã hội toàn cầu, nơi mà những bất công tồn tại và số người gia tăng đang bị tước đoạt các quyền con người và bị coi là bỏ đi được, thì nguyên tắc thiện ích chung lập tức trở thành, cách hợp lý và không thể thiếu, một mệnh lệnh đối với sự liên đới và một chọn lựa ưu tiên ành cho người nghèo khổ nhất trong số anh chị em của chúng ta. Chọn lựa này đi kèm với việc nhận biết những tác động của đích điểm hoàn vũ của những của cải của thế giới, nhưng, như tôi đã đề cập trong Tông Huấn Evangelii Gaudium,[123] điều đòi hỏi trước tất cả mọi thứ khác là một sự trân trọng phẩm giá lớn lao của người nghèo dưới ánh sáng của những xác tín sâu thẳm nhất của chúng ta trong tư cách là những người tin. Chúng ta chỉ cần nhìn xung quanh chúng ta sẽ thấy rằng, ngay nay, chọn lựa này thực ra là một điều buộc về mặt đạo đức thiết yếu đối với việc đạt tới thiện ích chung cách hiệu quả.

V. CÔNG LÝ GIỮA CÁC THẾ HỆ

159. Khái niệm về thiện ích chung cũng mở rộng ra tới các thế hệ tương lai. Những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu một cách đau đớn đã tạo ra những tác động gây nguy hại rõ ràng về việc coi thường số phận chung của chúng ta, là điều không thể loại trừ những người đến sau chúng ta. Chúng ta không còn có thể nói về sự phát triển bình ổn mà tách ra khỏi sự liên đới giữa các thế hệ. Một khi chúng ta bắt đầu nghĩ về loại thế giới mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ tương lai, chúng ta sẽ nhìn mọi sự theo cách khác; chúng ta sẽ nhận biết rằng thế giới là một quà tặng mà chúng ta đã được lãnh nhận nhưng không thì cũng phải chia sẻ với những người khác. Bởi vì thế giới đã được trao ban cho chúng ta, thì chúng ta không còn có thể nhìn thực tại theo một cách thực dụng thuần tuý, mà trong đó tính hiệu quả và hiệu năng lại hoàn toàn hướng đến lợi ích cá nhân của chúng ta. Sự liên đới giữa các thế hệ không mang tính chọn lựa, mà hơn thế là một vấn đề căn bản của công lý, bởi vì thế giới mà chúng ta đã lãnh nhận cũng thuộc về những người sẽ đến sau chúng ta. Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha đã kêu gọi chúng ta nhận biết điều buộc về công lý này: “Môi trường là một phần của một luận lý của sự tiếp nhận. Nó được vay mượn từ mỗi thế hệ, là điều sau đó phải trao lại nó cho thế hệ kế tiếp”.[124] Một nền sinh thái toàn diện được đánh dấu bởi tầm nhìn rộng hơn này.

160. Loại thế giới nào mà chúng ta muốn để lại cho những người đến sau chúng ta, cho con em của chúng ta hiện đang lớn lên? Câu hỏi này không chỉ liên hệ đến môi trường một cách biệt lập; vấn đề không thể được tiếp cận theo từng mảnh được. Khi chúng ta tự hỏi bản thân chúng ta loại thế giới nào mà chúng ta muốn để lại, chúng ta trước hết nghĩ về định hướng tổng thể của nó, ý nghĩa của nó và các giá trị của nó. Nếu chúng ta không đấu tranh với những vấn đề sâu hơn này, tôi không tin rằng sự quan tâm của chúng ta dành cho môi trường sẽ tạo ra những kết qua ý nghĩa được. Nhưng nếu chúng ta đối diện với những vấn đề này cách can đảm, thì chúng ta sẽ được dẫn dắt một cách vững vàng đến việc hỏi những câu hỏi được đặt ra khác: Đâu là mục đích của cuộc sống của chúng ta trên thế giới này? Tại sao chúng ta ở đây? Đâu là mục tiêu của công việc của chúng ta và của tất cả những nỗ lực của chúng ta? Trái đất cần gì từ chúng ta? Do đó, sẽ không bao giờ là đủ để chỉ đơn giản nói đến điều mà chúng ta quan tâm cho các thế hệ tương lai. Chúng ta cần phải thấy rằng điều đang có nguy cơ chính là phẩm giá của chúng ta. Việc để lại một hành tinh không thể sống nổi cho các thế hệ tương lai, trước hết và trên hết, tuỳ thuộc vào chúng ta. Vấn đề là một điều đang ảnh hưởng cách đáng kể trên chúng ta, vì nó có liên hệ đến ý nghĩa tối hậu của nơi tạm trú trần gian của chúng ta.

161. Những lời tiên báo về tận thế không còn có thể được đáp trả bằng sự mỉa mai và khinh miệt được nữa. Chúng ta chắc chắn sẽ để lại cho thế hệ kế tiếp những mảnh vỡ, sự hoang vu và sự bẩn thỉu. Tốc độ tiêu thụ, chất thải và sự biến đổi môi trường đã kéo quá căng khả năng của hành tinh đến nỗi lối sống hiện tại của chúng ta, vốn không ổn định như nó là, chỉ có thể tạo ra những thảm hoạ, chẳng hạn như những thảm hoạ mà thậm chí ngay bây giờ đang xảy ra cách định kỳ ở nhiều khu vực trên thế giới. Những tác động của tình trạng bất quân bình hiện tại chỉ có thể được giảm thiểu bằng hành động dứt khoát của chúng ta, ở đây và bây giờ. Chúng ta cần phải suy tư về trách nhiệm của chúng ta trước khi những người khác sẽ phải chịu đựng những hậu quả khốc liệt.

162. Khó khăn của chúng ta khi mang lấy thách đố này cách nghiêm túc có rất nhiều liên hệ đế sự suy thoái đạo đức và văn hoá là điều đã đi cùng với sự suy thoái về môi trường. Những người nam và người nữ của thế giới hậu hiện đại của chúng ta sẽ gặp mối nguy về chủ nghĩa cá nhân rộng khắp, và nhiều vấn đề của xã hội có liên hệ với nền văn hoá quy ngã về sự thoả mãn tức thời của thời nay. Chúng ta thấy điều này ở trong cuộc khủng hoảng gia đình và các mối liên kết xã hội và những khó khăn của việc nhìn nhận người khác. Các bậc cha mẹ có thể bị cuốn hút về việc tiêu thụ mang tính thúc ép và lãng phí, là điều sau đó sẽ ảnh hưởng đến con cái của họ là những người sẽ thấy ngày càng khó để có được một căn nhà của chính chúng và xây dựng một gia đình. Hơn thế nữa, việc không có khả năng suy nghĩ nghiêm túc của chúng ta về các thế hệ tương lai có liên hệ đến sự mất khả năng mở rộng phạm vi của chúng ta về những mối quan tâm của chúng ta và mất khả năng dành sự chú ý của chúng ta đến những người vẫn bị loại trừ khỏi sự phát triển. Chúng ta hãy đừng chỉ giữ người nghèo của tương lai trong tư tưởng, mà còn cả người nghèo ngày nay nữa, là những người mà cuộc sống của họ trên trên trái đất này ngắn ngủi và những người không thể chịu đựng việc đợi chờ. Do đó, “ngoài một cảm thức công bằng hơn về tình liên đới các thế hệ thì còn có một sự khẩn thiết mang tính đạo đức dành cho một cảm thức được đổi mới về tình liên đới giữa các thế hệ nữa”.[125]

Joseph C. Pham (Chuyển ngữ)




[114] Rio Declaration on Environment and Development (14 June 1992), Principle 4.
[115] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[116] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 51: AAS 101 (2009), 687.
[117] Some authors have emphasized the values frequently found, for example, in the villas, chabolas or favelas of Latin America: cf. JUAN CARLOS SCANNONE, S.J., “La irrupción del pobre y la lógica de la gratuidad”, in JUAN CARLOS SCANNONE and MARCELO PERINE (eds.), Irrupción del pobre y quehacer filosófico. Hacia una nueva racionalidad, Buenos Aires, 1993, 225-230.
[118] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 482.
[119] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.
[120] Address to the German Bundestag, Berlin (22 September 2011): AAS 103 (2011), 668.
[121] Catechesis (15 April 2015): L’Osservatore Romano, 16 April 2015, p. 8.
[122] SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 26.
[123] Cf. Nos. 186-201: AAS 105 (2013), 1098-1105.
[124] PORTUGUESE BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 September 2003), 20.
[125] BENEDICT XVI, Message for the 2010 World Day of Peace, 8: AAS 102 (2010), 45.

Đăng nhận xét